Spring Airsoft And Friends
Nếu đây là lần đầu tiên vào diễn đàn của bạn, bạn cần phải đăng kí làm thành viên để được hưởng hết quyền lợi của diễn đàn.

Những điều cần biết về nội quy của diễn đàn tại đây.

Những thiết lập cơ bản khi sử dụng diễn đàn tại đây.

Join the forum, it's quick and easy

Spring Airsoft And Friends
Nếu đây là lần đầu tiên vào diễn đàn của bạn, bạn cần phải đăng kí làm thành viên để được hưởng hết quyền lợi của diễn đàn.

Những điều cần biết về nội quy của diễn đàn tại đây.

Những thiết lập cơ bản khi sử dụng diễn đàn tại đây.
Spring Airsoft And Friends
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Xe tăng M1 Abrams của Mĩ

Go down

Xe tăng M1 Abrams của Mĩ Empty Xe tăng M1 Abrams của Mĩ

Bài gửi by brahweiz Mon Jun 06, 2011 11:08 am

Xe tăng M1 Abrams của Mĩ 300px-Abrams-transparent

M1 Abrams là loại xe tăng chủ lực do hãng General Dynamics của Hoa Kỳ sản xuất năm 1980, theo thiết kế của Chrysler Defense. Khối lượng chiến đấu 54,1 tấn, kíp xe 4 người. Thân xe dài 7,92 m (cả pháo quay phía trước 9,77 m); rộng 3,65 m; cao 2,38 m (đến nóc tháp pháo). Động cơ tuabin khí; công suất 1,100kw (1,500vc); khả năng leo dốc 30 độ; vách đứng 1,24 m; hào rộng 2,77 m; lội nước sâu 1,22 m (không có thiết bị lội ngầm). Tốc độ lớn nhất 72,4km/h; hành trình dự trữ 500 km. Vũ khí: pháo rãnh xoắn 105 mm ổn định trong hai mặt phẳng (đạn biên chế 55 viên); súng máy 7,62 mm (đạn biên chế 11400 viên); súng máy phòng không 12,7 mm (đạn biên chế 1000 viên). Được trang bị hệ thống điều khiển hoả lực có máy tính đường đạn, máy đo xa laser, kính ngắm ảnh nhiệt ...

Biến thể M1A1 được sản xuất từ 1985 có khối lượng chiến đấu 57,2t; tốc độ lớn nhất 66,77km/h, pháo nòng trơn (đạn biên chế 40 viên); dài (cả pháo) 9,83m; rộng 3,66m; cao 2,44m (đến nóc tháp pháo); vỏ được tăng cường lớp hợp kim có thành phần uran nghèo ...

Trên cơ sở M1, đã sản xuất xe bắc cầu hạng nặng HAB, xe tăng phá mìn TMMCR, xe sửa chữa, cứu kéo ARV-90.

Các xe M1 (-1A1) đã được sử dụng trong chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 và đang được suất khẩu sang nhiều nước khác.

Lịch sử ra đời

Từ giữa thập niên 70, giới lãnh đạo quân đội Mĩ bắt đầu thúc đẩy việc hiện đại hoá quân đội để hạn chế nguy cơ thất bại trên chiến trường. Công nghệ kĩ thuật của Mĩ vào lúc đó vẫn chưa thể hiện tương xứng trên chiến trường Việt Nam. Môi trường khắc nghiệt và chi phí leo thang của cuộc chiến ngăn cản ý định hiện đại hoá quân đội cho tới khi cuộc chiến Việt Nam đã hoàn toàn kết thúc. Cuộc chiến chống du kích trong rừng đã kết thúc, thế trận lúc này được tập trung vào những cuộc chiến siêu quy mô ở chiến trường châu Âu-Liên Xô. Cùng với đó là cuộc chiến giữa Israel và các nước Hồi giáo Trung Đông với những cuộc đấu tăng lớn kèm theo nhiều kinh nghiệm chiến trường từ đồng minh Israel khiến cho việc hiện đại hoá tập trung vào lĩnh vực tăng-thiết giáp.

Từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 đến tận những năm 1980, lực lượng tăng của Mĩ chủ yếu dựa trên sự phát triển của cái rễ M26 Persing thành các ngọn M46, M47, M48, M60. Những nỗ lực thay thế đột phá như MBT-70, T-95(không phải xe tăng T-95 của Nga về sau) đều thất bại vì chi phí cao và quá phức tạp. M1 đã ra đời vào đúng thời điểm lí tưởng với các công nghệ vừa mới ra lò: giáp composite, thiết bị quan sát đêm bằng hồng ngoại, thiết bị xác định khoảng cách bằng laser, máy tính đạn đạo và động cơ turbine. Những công nghệ này sau đó đã được trang bị cho xe tăng M1. Rút kinh nghiệm thất bại từ MBT-70, người Mĩ quyết định thiết kế Abram theo một hướng mới: thay vì cố gắng chế tạo loại xe tăng tốt nhất thế giới, họ chế tạo loại xe tăng tốt nhất và có chi phí vừa phải. So với Leopard 2 của Đức và Challenger của Anh, Abram có giá rẻ hơn nhưng vẫn là một địch thủ mạnh không hề thua kém.

M1 là đỉnh cao của chương trình thay thế M60 bắt đầu từ những năm 1960. Một trong những cố gắn đầu tiên trong chương trình là MBT-70 của liên minh Mĩ-Đức, tuy nhiên dự án MBT-70 đã thất bại với sự rút lui của Đức vì quá phức tạp và tốn kém. Phiên bản ít phức tạp hơn của MBT-70 là XM803 được nghiên cứu tuy nhiên vẫn bị huỷ vào cuối năm 1971. Tháng 2 năm 1972, nhóm nghiên cứu xe tăng chủ lực (MBT) mới được thành lập tại Fort Knox dưới quyền của thiếu tướng William Desobry để nghiên cứu yêu cầu cho loại MBT mới. Những yêu cầu cho loại MBT mới đượt đặt theo thứ tự ưu tiên: Sự an toàn của tổ lái, khả năng giám sát và phát hiện mục tiêu, tỉ lệ trúng của phát đạn đầu và các phát sau, thời gian phát hiện và bắn mục tiêu thấp, độ di động trên địa hình mở, tích hợp vũ khi đầy đủ, sự an toàn cho thiết bị, môi trường cho tổ lái, sự lộ diện của xe, tăng tốc và giảm tốc, sắp xếp đạn, yếu tố con người, khả năng sản xuất, tầm hoạt động, tốc độ, hậu cần, khả năng phát triển, thiết bị hỗ trợ và khả năng chuyên chở(bằng máy bay, xe...). Việc sản xuất phiên bản thử nghiệm xe tăng XM815 sau đó được trao cho hai nhà thầu Chrysler(sản xuất M60) và GM(chế tạo MBT-70) vào tháng 6 năm 1973.

Sự lựa chọn vũ khí tập trung vào 3 loại pháo chính: M68 105mm có sẵn, pháo nòng xoắn 110mm của Anh và pháo Rheinmentall 120mm nòng trơn của Đức. Người Mĩ sau đó quyết định chọn pháo 105mm vì những tiến bộ trong chế tạo đạn APFSDS DU cho khả năng xuyên giáp cao (đạn M833 nâng cấp có khả năng xuyên phá 420mm RHA ở khoảng cách 2.000m, 60 độ) so với nhiều loại đạn APFSDS lõi tungsten khác(đạn 120mm APFSDS của Anh có khả năng xuyên 400mm và 125mm của LX có thể xuyên 450mm) mà vẫn giữ được tiêu chuẩn cho quân đội. Hơn nữa khi nghiên cứu pháo 120mm của Đức, người Mĩ kết luận rằng nó quá phức tạp và mắc tiền đối với tiêu chuẩn của Mĩ. Phiên bản được đơn giản hoá rẻ tiền hơn là M256 sau đó được cho ra đời cùng vài điều chỉnh trong hệ thống điều khiển hoả lực. Phiên bản M256 không ra đời kịp lúc cho sản xuất hàng loạt với xe tăng Abram.

Ngoài ra cũng có một số ý tưởng phát triển độc đáo: tên lửa chống tăng phóng từ pháo chính như loại tên lửa Shillelagh 152mm của xe tăng M551 Sheridan, M60A2 Paton và MBT-70 phiên bản của Mĩ nhưng bị huỷ bỏ vì nhiều tiến bộ trong hệ thống điều khiển hoả lực (FCS) chính xác cao cũng như thực tế là đạn pháo thường có giá bằng 5% giá tên lửa. Một ý tưởng khác là lắp 1 pháo 25mm Bushmaster đồng trục với pháo chính để tiêu diệt các thiết giáp nhẹ nhằm giảm tiêu thụ đạn cho pháo chính (bị huỷ vì quyết định chế tạo dòng IFV Bradley).

Một quan ngại khác là về sự an toàn của chiếc MBT mới. Trong lịch sử, nguyên nhân chính của việc mất mát xe tăng chạy bằng động cơ diesel là do đạn bốc cháy. Để khắc phục đêìu này, khoang chứa đạn của XM815 được thiết kế để đặt sau tháp pháo để tránh bị bắt lửa khi vỏ xe bị xuyên phá.

Cách thức phát triển công đoạn nghiên cứu, chế tạo MBT mới của quân đội Mĩ cũng khá khác lạ. Đó là đặt hàng phiên bản mẫu từ hai hãng Chrysler Defense và GM. Người của quân đội Mĩ không dính líu sâu vào việc nghiên cứu chế tạo MBT mới mà chủ yếu là quản lí ở cấp cao của chương trình và thực hiện những cuộc kiểm tra sau này. Tuy nhiên cách thức này giúp cho thế hệ MBT mới tốt hơn và có giá rẻ hơn. Hai nhà thầu đã đồng ý phát triển XM815 vào tháng 6 năm 1973. GM thiết kế 1 mẫu xe sử dụng động cơ diesel, Chrysler thì sử dụng động cơ turbine. Ngoài những yêu cầu kĩ thuật cho loại MBT mới thì yêu cầu về giá cả không vượt quá 507.790 USD/ chiếc(thời giá 1972) cũng được đặt ra.

Tháng 7 năm 1973, một nhóm nghiên cứu của Mĩ đến thăm cơ sở nghiên cứu ở Chobham, Anh để tìm hiểu về loại giáp đặc biệt đang được phát triển. Loại giáp mới này có tên Burlington đặt bởi quân đội Mĩ hay tên thông dụng hơn là Chobham. Loại giáp mới này cho khả năng kháng cự "ngoại hạng" đối với đạn nổ lỏm so với giáp thép.

Cuối năm 1973, chương trình XM815 được đổi tên thành XM1.

Việc quyết định áp dụng giáp Chobham lên M1 cũng buộc hai nhà thầu thiết kế lại lớp ngoài của giáp cho phù hợp. Hai mẫu thử nghiệm của hai nhà thầu sau đó được đưa tới bãi thử Aberdeen và các cuộc thử nghiệm bắt đầu từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1976.

Cùng lúc đó, Mĩ cũng đang hối thúc các đồng minh châu Âu trong NATO tiêu chuẩn hoá các loại vũ khí của mình. Chính quyền Đức lúc đó đề nghị Mĩ nên xem xét việc dùng Leopard 2 làm MBT mới của Mĩ để khởi động cho kế hoạch tiêu chuẩn hoá NATO. Dù làm khó chịu nhiều nhà lãnh đạo quân đội, bộ quốc phòng Mĩ vẫn quyết định đồng ý xem xét Leopard 2. Một phiên bản của Leopard 2 là Leopard 2 AV sau đó được đưa tới Mĩ vào mùa thu năm 1976 để nghiên cứu. Leopard 2 được đánh giá là có hệ thống điều khiển hoả lực tốt hơn, nhưng lại yếu hơn về giáp, cách chứa đạn, xoay tầm hướng của tháp pháo và yếu tố quyết định: Leopard 2 mắc hơn 25% so với XM1. Tháng 1 năm 1977, cả hai nước quyết định chỉ nên tiêu chuẩn hoá vài phần của xe tăng thay vì là nguyên cả xe. Mĩ quan tâm tới việc trang bị pháo Rheinmentall 120mm cho xe tăng M1 tương lai còn Đức thì cân nhắc việc dùng động cơ turbine AGT-1500 cho xe tăng Leopard.

Ban đầu, quân đội Mĩ tỏ vẻ muốn giao hợp đồng cho GM vì thích thiết kế của GM hơn, tuy nhiên quân đội vẫn muốn GM thay đổi lại thiết kế cho động cơ turbine AGT-1500. Ý định dùng động cơ turbine của quân đội cũng là vì những kết quả tốt từ động cơ turbine trực thăng trong những năm 1960. Quân đội Mĩ phát hiện rằng động cơ turbine có thời gian hoạt động cao hơn trước khi cần đại cần tu giúp xe giảm nhiều chi phí hoạt động. Người ta thường quên rằng chi phí hoạt động và bảo dưỡng của 1 xe tăng thường ngang với giá của chính nó. Văn phòng bộ trưởng quốc phòng (ODS) chống lại ý định của quân đội và đề nghị tiến hành việc giao thầu sau những thủ nghiệm kiểm tra cuối cùng sau khi 2 nhà thầu đã hoàn tất mẩu thử với việc thay động cơ và chỉnh lại tháp pháo cho khẩu 120mm trong tương lai. Chrysler quyết định thay đổi thực sự thiết kế của phiên bản XM1 để giảm giá thành, vốn là yếu tố quan trong mà ODS đề ra. Nhóm nghiên cứu của Chrysler dưới sự lãnh đạo của Dr Philip Lett Jun thiết kế lại lớp ngoài của loại giáp đặc biệt ở tháp pháo để tăng ưu thế về công nghệ. Thiết bị quan sát của xạ thủ cũng được đặt xa ra khỏi vị trí của xa trưởng để tránh cản tầm nhìn của xa trưởng. Nhiều cải tiến và đơn giản hoá được thêm vào nắp vòm của xa trưởng và hệ thống xát định khoảng cách bằng laser.


Ngày 12 tháng 11 năm 1976, mẫu xe của Chrysler được chọn thực hiện hợp đồng phát triển kĩ thuật mức độ lớn (FSED). Giai đoạn FSED đòi hỏi Chrysler sản xuất 11 xe tăng thí điểm cho kiểm tra. Chiếc đầu tiên được giao vào tháng 2 năm 1978. Kiểm tra sau đó phát hiện sự cố do dộng cơ turbine bị nhiễm cát và bùn bị dính vào bánh răng trên xích. Để giải quyết, người ta cải tiến các bộ lọc không khí và các tấm chắn bùn đơn giản. Những xe tăng này sau đó được đưa vào kiểm tra sự an toàn với nhiều loại đạn khác nhau trong khi xe chở đầy đủ nhiên liệu và đạn dược. Cuộc thử nghiệm đã thành công và làm ấn tượng nhiều quan chức quân đội về sự vượt trội của M1 so với M60. Giai đoạn sản xuất qui mô nhỏ ban đầu được hco phép vào ngày 7 tháng 5 năm 1979. Có 110 chiếc được sản xuất trong giai đoạn này sau đó được đưa đikiểm tra khả năng hoạt động ở các bang Texas, Yuma, Arizona, điều kiện cực ở Alaska, điều kiện nhiệt đới ở Florida và điều kiện điện từ và phóng xạ ở bãi thử tên lửa White Sand.

XM1 được đưa vào sản xuất hàng loạt vào tháng 2 năm 1981 và được xếp loại tuyệt mật. Ban đầu người ta định đặt tên của tướng Geogre C. Marshall, tuy nhiên vì liên hệ đến tăng nên người ta chọn tên của tướng Creighton Abram, chỉ huy tiểu đoàn tăng của sư đoàn thiết giáp số 4 và là chỉ huy quân đội quân đội Mĩ tại Việt Nam sau này. Xe tăng M1 Abram cuối cùng được sản xuất ở hai nhà máy sản xuất tăng ở Lima (Ohio) và Detroit (Michigan). Trong giai đoạn này thì Chrysler Defense, phân nhánh quân sự của tập đoàn Chrysler bị bán cho General Dynamic Land Systems(GDLS).

Tính cơ động

Động cơ của xe tăng Abram là động cơ AGT-1500 đa nhiên liệu kiểu turbine khí. Động cơ turbine khí nhỏ hơn và có ít bộ phận hơn và ít ồn hơn so với động cơ piston có cùng công suất. Tuy nhiên động cơ turbine khí tốn nhiều nhiên liệu hơn và toả nhiều nhiệt hơn so với động cơ piston. Động cơ AGT-1500 có trọng lượng khoảng 3,855kg. Có thể thay thế các phần riêng rẽ của hệ thống động cơ-truyền động mà không cần phải lấy nguyên toàn bộ hệ thống ra. Thời gian để lấy toàn bộ động cơ và hệ thống truyền động tự động chỉ mất 1h(đối với M60 là 4h). Để khởi động, M1 ngốn 34 lít xăng JP-8. M1 có thể tăng tốc từ 0 lên 32 km/h trong 7s. Nguyên lý hoạt động của động cơ turbine khí là hút không khí vào trong một máy nén có áp suất cao. Tại đây, không khí được trộn với nhiên liệu và đốt cháy. Luồng hơi nóng có áp suất cao từ máy nén thổi tiếp vào trong làm xoay cánh quạt turbine, vận hành động cơ. Sau đó luồng hơi được thải 1 phần, một phần luồng hơi được đưa vào bộ thu hồi khí để sử dụng lại. Hệ thống bánh răng truyền động truyền lực xoay của cánh quạt vào 2 bánh xe chủ động ở sau xe. Cuối cùng, động cơ của M1 là loại không khói.
Một chiếc M1 Abrams đang làm nhiệm vụ cảnh giới tại một vị trí quân sự ở phía Tây Nam thủ đô Baghdad, Iraq

Hệ thống treo của M1 bao gồm 7 thanh đòn nối với bánh xe đi đường ở mỗi bên thân xe. Các thanh đòn này có trục ở giữa để gắn hai bánh xe đi đường lại với nhau thành một bánh đôi. 14 thanh đòn này được nối với nhau bằng các thanh xoắn làm từ thép có độ cứng cao. Các thanh xoắn này chạy ngang thân xe, nối 2 thanh đòn ở hai bên sườn lại với nhau. Hệ thống truyền động của M1 cho phép bánh xe đi đường có thể di chuyển lên xuống 38cm. Để ổn định các thanh xoắn, 6 thiết bị giảm sốc ở các cặp bánh số 1,2 và 7. Các thiết bị giảm sốc giúp xe không bị đung đưa trên các thanh xoắn khi di chuyển. Bởi vì các bánh đi đường ở đầu thường chịu ảnh hưởng lớn của địa hình nên cặp bánh 1, 2 được trang bị thiết bị giảm sốc. Bánh xe cuối được trang bị thiết bị giảm sốc để ổn định xích xe trước khi đi vào bánh răng của bánh truyền động. Hệ thống truyền động của M1 bao gồm 4 số tiến và 2 số lùi.

Xích T-158 được bọc cao su rộng 61cm, phần tiếp xúc với mặt đất dài khoảng 7,6m. Các mắt xích bị hỏng có thể được thay thế. Bình xăng bao gồm 4 khoang chứa 1.909 lít của M1 có thể giúp xe lái được trong khoảng 8 tiếng đồng hồ tuỳ theo điều khiện khác nhau. Trong điều kiện lí tưởng, một xe tăng cần 10 phút để nạp nhiên liệu, một trung đội(4 xe tăng) cần 30 phút. Mức tiêu thụ nhiên liệu trung bình:

0,6 dặm(0,96km) cần 1 gallon(3,785l) nhiên liệu.
Hơn 30 gallon(227l) đi được 1h trên địa hình lí tưởng.
60 gallon(454l) khi di chuyển trên địa hình ghồ ghề.
Lưỡi cày mìn tăng 25% tiêu thụ nhiên liệu.

Cần lưu ý rằng phiên bản M1A2 SEP chỉ có bình xăng 3 khoang dung tích 1.680 lít nên tầm hoạt động ngắn hơn(350 km) so với các phiên bản khác. Tốc độ di chuyển cao nhất trên địa hình gồ ghề của M1 là 48km/h, cao gấp đôi so với M60A3. M1 có thể tăng tốc từ 0 lên 32km/h chỉ trong 7s trên đường. Tốc độ di chuyển cao nhất trên đường trung bình khoảng 67 km/h cho phiên bản mang pháo 120mm. Tốc độ tối đa của M1 có thể cao hơn nếu không có thiết bị điều chỉnh vận tốc của động cơ. Trọng lượng lớn (M1A1 nặng 57 tấn, M1A2 nặng 67 tấn trong khi xe tăng T-90 của Nga chỉ nặng 46,5 tấn) của xe khiến cho tốc độ di chuyển trên địa hình ẩm ướt và đất mềm cũng như khả năng vượt hào bị hạn chế nhiều, tuy nhiên nó giúp cho xe an toàn hơn khi lái trên địa hình ghồ ghề. M1 không có hiện tượng bay lên khỏi mặt đất sau khi vượt qua chướng ngại vật như các xe tăng có trọng lượng dưới 50 tấn, thay vào đó, nó lướt qua chướng ngại, xích xe vẫn áp sát mặt đường. Khi tiếp đất với kiểu bay, tổ lái nếu không mang đai an toàn có thể bị thương nặng ở đầu và cổ, nhưng với M1 thì không sao, điều này cho phép tổ lái của xe M1 linh hoạt và thoải mái hơn. Trọng lượng nặng và hệ thống treo thuỷ lực của M1 giúp cho nó di chuyển một cách đặc biệt êm ái trên địa hình ghồ ghề. Động cơ turbine khí giúp M1 di chuyển ít ồn và tuổi thọ động cơ cao hơn so với động cơ diesel của M60. Tuy nhiên, M1 vẫn có 1 điểm yếu là nó không có khả năng lặn sâu so với nhiều loại xe tăng khác. Thiết bị lặn của M1 chỉ cho phép xe vượt qua chỗ nước sâu không quá nóc xe.

Nhờ có hệ thống lọc không khí trước khi đưa vào động cơ nên M1 không chịu nhiều ảnh hưởng do cát bụi và thời tiết. Tuy nhiên, vì tiêu thụ quá nhiều nhiên liệu nên thường chỉ có những xe bồn cỡ lớn mới có thể giải khát cho một lực lượng M1, và những xe bồn này có khả năng di chuyển địa hình cũng như chịu đựng thời tiết kém hơn so với xe tăng nên việc tiếp tế thường tốn nhiều thời gian.

Thiết kế bên trong và bên ngoài

Vị trí của xa trưởng: được trang bị sáu kính quan sát có thể quan sát toàn bộ 360 độ quanh xe. Thiết bị quan sát hồng ngoại độc lập (ITV/independent thermal viewer) của hãng Texas Instruments cung cấp khả năng quan sát ngày và đêm độc lập (với xạ thủ) được ổn định, có thể quan sát 360 độ, tự động quét khu vực, tự động chuyển thông tin về mục tiêu cho xạ thủ và một hệ thống điều khiển hỏa lực dự phòng cho phép xa trưởng sử dụng pháo chính. Khẩu M2 của xa trưởng cũng được trang bị một kính nhắm 3X.

Vị trí của xạ thủ: được trang bị GPS (gunner’s primary sight/(thiết bị) ngắm chính của xạ thủ) từ Electro-Optical Systems Division của công ty Hughes Aircraft. Hệ thống tạo ảnh hồng ngoại (thermal imaging systerm/TIS) cũng của công ty Hughes tạo ra một hình ảnh dựa trên sự khác biệ về nhiệt độ của các vật thể trong khu vực nhìn thấy. Hình ảnh tạo ra được hiển thị trong một thị kính cùng với thông số về khoảng cách có sai số dưới 10m từ thiết bị xác định khoảng cách bằng laser của Hughes. Cùng với đó là một máy tính đạn đạo. Dữ liệu về khoảng cách được truyền trực tiếp vào máy tính đạn đạo, sau đó được tự động tính toán. Dữ liệu bao gồm: 1) Góc bắn đón, 2) Góc nâng hạ của pháo chính được tính bằng cảm ứng đầu nòng đặt trên pháo chính, 3) Dữ liệu về gió đo bằng cảm biến gió trên nóc tháp pháo, 4) dữ liệu từ con quay hồi chuyển đặt tại trung tâm của nóc tháp pháo. Cuối cùng, người xa trưởng hay xạ thủ sau đó đưa thông tin về loại đạn, nhiệt độ và áp suất khí áp vào. GPS được trang bị hai kính quan sát đôi 3X và 10x ban ngày cũng như 3X và 10X ban đêm. Ngoài GPS, còn có một kính nhắm phụ trợ 8X khác.

Vị trí của người nạp đạn: không được trang bị các thiết bị điều khiển hỏa lực đặc biệt nào. Tuy nhiên, từ vị trí của mình, người nạp đạn có thể quan sát toàn bộ bên trong xe, điều này rất quan trọng nên hầu hết xa trưởng đều chọn người có kinh nghiệm nhiều thứ hai vào vị trí của người nạp đạn. Phía sau lưng người nạp đạn là khoang chứa đạn của pháo chính được ngăn cách bằng một lớp cửa thép. Để lấy đạn từ khoang, người nạp đạn phải nhấn giữ một nút để mở cửa trượt ngăn cách. Khi buôn nút, của tự động đóng lại. Trên nắp ra vào của người nạp đạn cũng có một kính quan sát 1X có thể xoay 360 độ.

Vị trí của lái xe: Lái xe có một ghế ngồi tự ngã về sau khi hách ra vào đóng lại cũng như khi xe đang trong trạng thái hoạt động. Vị trí của lái xe cũng được thiết kế để thích hợp với 95% nam giới Mĩ, cho phép người lái dù mập hay ốm cũng có thể điều khiển xe. Bên cạnh lái xe có trang bị các thiết bị đo đạc và màn hình tiêu chuẩn thể hiện tình trạng nhiên liệu, điện năng của các pin, các thiết bị điện tử. Thiết bị quan sát của lái xe bao gồm ba kính quan sát cung cấp tầm nhìn 120 độ. Kính quan sát ở chính giữ có thể được gắn một thiết bị hồng ngoại để quan sát ban đêm hay trong điều kiện khói bụi.

Khả năng bảo vệ

Với ưu tiên thiết kế hàng đầu là bảo vệ tố lái, M1 Abram là một trong những loại xe tăng an toàn nhất thế giới ngay cả khi giáp xe không cản nổi đạn của đối phương.

Như hầu hết các loại xe tăng được thiết kế vào thời chiến tranh lạnh, giáp xe tăng Abram được tập trung dày nhất ở 60 độ trước xe. Giáp của Abram là loại giáp Burlington theo tên gọi của Mĩ hay Chobham theo tên gọi của Anh. Giáp Chobham có khả năng chống đạn cao hơn nhiều lần so với thép thường. Đến những năm 1980, giáp xe tăng Abram được tăng cường thêm Uranium nghèo(DU) ở giữa hai lớp giáp của tháp pháo giúp tăng thêm khả năng chống đạn xuyên giáp bằng động năng. Cũng như nhiều xe tăng kiểu phương Tây khác, giáp chính ở phía trước xe tăng Abram là 100% giáp thô, không lệ thuộc vào ERA. Điều này khiến cho xe có trọng lượng lớn, nhưng bù lại giáp có độ bền cao hơn nhiều. Trong chiến tranh vùng Vịnh, không hề thiếu những trường hợp xe tăng Mĩ bị tấn công bởi RPG và súng trường.

Thiết bị nhắm chính của xạ thủ (GPS) được trang bị cửa đóng mở để bảo vệ trước các loại miểng pháo và đạn súng cá nhân. Phía trước tháp pháo của M1 cũng được thiết kế khá vuông vức, các khí tài quan sát được đặt lùi về sau so với mặt trước của tháp pháo giúp tăng độ an toàn cho khí tài khi mặt trước tháp pháo bị tấn công bằng đạn HE hoặc HEAT. Hai bên và phía sau tháp pháo được gắn những khung chứa hàng đôi khi cũng giúp giảm hiệu quả sát thương của các loại đạn HEAT. Hai bên sườn xe cũng được trang bị giáp hông (skirt armor) khá dày cũng nhằm mục đích giảm hiệu quả của đạn HEAT. Tuy nhiên những biện pháp này không thể bảo vệ xe hoàn toàn trước các loại đạn, nhất là những loại đạn HEAT hiện đại, kèm thêm một thực tế là phần động cơ phía sau thân xe hoàn toàn không thể chịu được bất kì loại đạn nào mang nhãn chống tăng. Nhằm khắc phục nhược điểm này, gói nâng cấp TUSK đã ra đời. Nâng cấp chính bao gồm giáp ERA lắp hai bên sườn thân xe và giáp lồng ở phía sau xe.

Đằng sau lớp giáp cứng là một lớp chống miểng làm bằng Kevlar giúp chống lại mảnh vở của giáp khi giáp bị xuyên phá.

Ở bên trong xe, khoang chứa đạn của Abram được đặt sau tháp pháo, cá biệt với khoang chiến đấu bằng một lớp của thép. Khoang chứa đạn có hai tấm ván blow-off trên nóc. Khi đạn trong khoan phát nổ, sức nổ của chúng sẽ thổi bay các tấm ván blow-off, giải phóng sức nổ ra ngoài xe mà không gây thiệt hại cho tổ lái. Thiết kế an toàn này là điểm độc đáo mà hầu như không loại xe tăng nào khác có. Phần thân dưới phía trước có hai bình nhiên liệu lớn. Tuy nhiên, chúng lại giúp tăng khả năng bảo vệ chống đạn từ phía trước cho xe. Thực vậy! Chất lỏng cũng có khả năng chống đạn. Ví dụ như nước có khả năng chống đạn CE bằng 45% RHA, KE bằng 15%. Ethanol có khả năng chống đạn CE bằng 63% RHA, KE bằng 15%. Ngoài ra, hai bình nhiên liệu này có vỏ làm bằng các lớp nhôm có lỗ giống tổ ong kẹp giữa các tấm nhôm mỏng. Thiết kế này có khả năng chống đạn bằng 70% RHA nhưng có chi phí thấp và trọng lượng nhẹ.

Ngoài ra, Abram còn được trang bị hệ thống chữa cháy tiên tiến bằng khí halon có khả năng phát hiện hoả hoạn chỉ trong 2 phần nghìn giây và dập tắt chúng trong vòng 1/4 giây. Cả khoang lái lẫn khoang động cơ đều có hệ thống chữa cháy bằng khi halon. Tuy nhiên, với dung tích bình xăng hơn 1900 lít, thì các hệ thống chữa cháy này chỉ có thể dập tắc các đám cháy nhỏ-vừa và cầm chân các đám cháy lớn cho tổ lái có thời gian thoát thân. Trong trường hợp hệ thống tự động bị trục trặc, tổ lái có thể kích hoạt hệ thống chữa cháy bằng tay từ bên trong(đối với hệ thống dập lửa khoang lái) hoặc bên ngoài(đối với khoang động cơ). Trong tương lai, M1 sẽ được bảo vệ thêm bởi hệ thống phòng thủ tích cực Quick-Kill có khả năng đánh chặn hầu hết các loại đạn từ mọi hướng xung quanh xe. Hệ thống Quick-Kill sẽ được đưa vào trang bị thử nghiệm trong năm 2009 cho lực lượng Mĩ. Trong thời gian chờ loại APS “hard kill” này, quân đội Mĩ đã trang bị các thiết bị hình hộp AN VLQ-8A “soft kill” có khả năng gây nhiễu các loại tên lửa chống tăng SACLOS đời đầu.

Thiết bị phản ứng chống tên lửa(MCD) AN VLQ-8A :

Thiết bị phản ứng chống tên lửa AN VLQ-8A của hãng Sander(thuộc công ty Lockheed Martin) cung cấp khả năng bảo vệ tức thời chống lại một số lớn tên lửa chống tăng có điều khiển (ATGM) cho các loại xe thiết giáp. Hơn 1.000 hệ thống đã được giao cho quân đội Mĩ. Hiện vẫn chưa có thông tin về việc xuất khẩ hệ thống này. Thiết bị AN VLQ-8A này có thể làm nhiễu các loại tên lửa SACLOS, qua đó ngăn chặn chúng tới được mục tiêu. Thời gian trung bình trước khi gặp sự cố của thiết bị này vào khoảng 400 h, được cho là rất đáng tin cậy và không cần bảo trì ở cấp độ lớn. Tất cả những gì cần làm cho một thành viên tổ lái là bật tắt hệ thống, lau chùi bụi đất để cho hệ thống hoạt động trong thời gian dài. Hệ thống này thường được đặt trên nóc tháp pháo xe tăng Abram. Nhiều hệ thống cũng có thể được trang bị cho một xe tăng nếu cần vùng bảo vệ lớn hơn. Tuy nhiên, hệ thống MCD này tỏa ra một lượng lớn tia hồng ngoại có thể đốt cháy mắt và da người đứng trước nó. Vì vậy, binh sĩ được khuyến cáo không nên nhìn vào thiết bị này trong tầm 4m.

TUSK(Tank Urban Survability Kit :

Bao gồm: Giáp ERA cho tăng Abram (ARAT) 2 bên sườn xe, Giáp lồng phía sau xe, RWS cho súng máy .50 của xa trưởng, Tấm chắn đạn cho súng máy 7,62mm của người nạp đạn, Súng máy .50 đồng trúc với pháo chính, Điện thoại liên lạc giữa tăng-bộ binh, Mũ nhắm bắn hồng ngoại khẩu M240 cho người nạp đạn.

Hỏa lực
Hệ thống điều khiển hoả lực

Hệ thống nhắm chính của M1 gồm kính quan sát đôi 10x và 3x ngày-đêm. Hệ thống hồng ngoại của Abram có tầm hoạt động vào khoảng hơn 4000 m. Máy tính đạn đạo của Abram tính đường đạn dựa trên các thông số: góc bắn (xác định bằn cảm biến đầu nòng), khoảng cách (xác định bằng hệ thống laser), tốc độ và hướng gió (cảm biến gió trên nóc xe), thông số từ con quay hồi chuyển, tốc độ của mục tiêu(xác định bằng máy đếm số vòng), nhiệt độ, áp suất khí quyển, loại đạn, nhiệt độ của đạn. Cộng chung lại, máy tính đạn đạo cho khả năng bắn chính xác 95% ở khoảng cách bình thường. Cả xa trưởng lẫn xạ thủ đều có thể sử dụng pháo chính. Trong trường hợp cần thiết, pháo chính và súng máy đồng trục của xe tăng Abram có thể được nhắm bắn bằng thiết bị nhắm phụ trợ 8X của xạ thủ (GAS/Gunner Auxiliary Sight). GAS có hai đầu ruồi để nhắm bắn loại đạn HEAT và loại đạn APFSDS, STAFF. Khẩu M2 của xa trưởng được trang bị một kính nhắm 3X và có thể điều khiển từ trong xe.

Súng-Pháo

Vũ khí của xe tăng Abram gồm 4 loại: pháo chính, súng máy đồng trục, súng máy phòng không hạng nặng và súng máy phòng không hạng trung nếu không tính đến vũ khí riêng của tổ lái.

Pháo chính của xe tăng M1 Abram gồm hai loại là M68 105mm (M1, M1IP) và M256 120mm (M1A1 về sau).
Pháo M256 là loại pháo nòng trơn, phiên bản của kiểu pháo Rhenmental L44 (Đức):
Trọng lượng: 3084 kg
Lực đẩy khi bắn: 7000 lb- giây
Chiều dài nòng: 5,301 m
Tuổi thọ của khoá nòng: 4500 phát
Tuổi thọ của nòng: 1500 phát
Pháo M256 bao gồm các tính năng:
Bắn các loại đạn tiêu chuẩn NATO STANAG 4385
Có bậu giữ khí nòng pháo
Có tính năng cách nhiệt
Có cảm biến đầu nòng
Khoá nòng phải được người điều chỉnh trước khi bắn phát đầu tiên
Không cân bằng đồng tâm

Các phiên bản:

M256: phiên bản pháo nòng trơn L44 120 mm. Thông số như trên
M256E1: phiên bản của pháo nòng trơn L55 120 mm(có nòng dài hơn 130 cm so với L44, tăng 30% thể hiện so với pháo thường cùng loại). Một phần của dự án nghiên cứu Hệ thống vũ khí xe tăng tiên tiến(Advanced Tank Armament System/ATAS).

Súng máy đồng trục và phòng không hạng trung: là loại M240 bắn đạn 7,62x51mm tiêu chuẩn NATO.
Súng máy phòng không hạng nặng: loại M2HB Browning bắn đạn .50 cal(12,7x99mm).

Đạn

Đạn 120mm của Abram được sản xuất bởi hãng Alliant Techsystems và hãng General Dynamics Ordnance and Tactical System. Các sơ sở chính:

Primex Technologies, St. Petersburg, Florida: trụ sở chính của nhà thầu
Alliant Techsystems, Minneapolis, Minnesota: trụ sở chính của nhà thầu
Ver-Sa-Til Associates Inc., Chanhassen, Minnesota: cánh đuôi và vỏ tách rời của đạn M830A1
Wiltec Industries, New Hope, Minnesota: thân của kíp nổ
NB 502 Inc., New Brighton, Minnesota: đầu nổ lõm của đạn M830A1
Motorola Inc., Scottsdale, Arizona: cảm biến khoảng cách của đạn M830A1
Armtec Defense Products, Coachella, California: vỏ đạn loại cháy được
Nuclear Metals Inc., Concord, Massachusetts: đầu xuyên của đạn M829A2
Conco Inc., Louisville, Kentucky: vỏ đựng kim loại PA116
Ferrulmatic Operations, Totowa, New Jersey: đáy kim loại của vỏ đạn, các thành phần của đạn M830A1/M865
Aerojet Ordnance, Jonesboro, Tennessee: đầu xuyên của đạn M829A2
Bulova Technologies, Lancaster, Pennsylvania: ngòi nổ đầu đạn M830A1
Flinchbaugh Technologies, Red Lion, Pennsylvania: đáy vỏ đạn M829A2, M865 và các thành phần của dạn M830A1
Radford Army Ammunition Plant, Radford, Virginia: thuốc phóng
Ray and Zimmerman Operations, Camden, Arkansas: kíp nổ
Trung tâm hậu cần và thử nhiệm đạn đạo quốc gia, Camden, Arkansas: thử nghiệm bắn đạn thật
Kilgore Operations, Toone, Tennessee: kíp nổ
Eagle Pitcher Industries, Joplin, Missouri: pin nhiệt cho đạn M830A1
Thyssen Precision Forge Inc., Garner, Bắc Carolina: kim loại ép cho đáy vỏ đạn
Nhà máy đạn Iowa, Middletown, Iowa: tập trung, lắp rắp và đóng gói bên ngoài cho đạn

Loại Xe tăng chiến trường chính
Quốc gia chế tạo United States
Lược sử hoạt động
Trang bị 1980–hiện tại
Quốc gia sử dụng Xem Bên sử dụng
Sử dụng trong Chiến tranh vùng Vịnh (Chiến dịch Bão táp Sa mạc)
Chiến tranh Afghanistan (Chiến dịch Tự do Bền vững)
Iraq War (Chiến dịch Iraq Tự do)
Lược sử chế tạo
Nhà thiết kế Chrysler Defense
Nhà sản xuất Lima Army Tank Plant (1980-hiện tại)
Detroit Arsenal Tank Plant (1982-1996)
Giá thành US$6.21 triệu (M1A2 / FY99)
Số lượng chế tạo Hơn 9,000
Các biến thể Xem Biến thể
Thông số kỹ chiến thuật
Trọng lượng 67,6 tấn ngắn (61,3 t; 60,4 long ton)
Chiều dài Súng hướng phía trước: 32,04 ft (9,77 m)[4]
Chiều dài thân: 26,02 ft (7,93 m)
Chiều rộng 12 ft (3,66 m)
Chiều cao 8 ft (2,44 m)
Kíp chiến đấu 4 (chỉ huy, pháo thủ, người nạp đạn, lái xe)
Bọc giáp Chobham, giáp RH, giáp thép bọc uranium nghèo
Vũ khí chính Pháo nòng rãnh xoắn 105 mm M68 (M1)
Pháo nòng trơn 120 mm M256 (M1A1, M1A2, M1A2SEP))
Vũ khí phụ 1 x .50 (12.7 mm) súng máy hạng nặng M2HB
2 x 7.62 mm (.308) súng máy M240 (1 trục, 1 đồng trục)
Động cơ Động cơ turbine đa nhiên liệu Honeywell AGT1500C
1,500 shp (1,120 kW)
Công suất/trọng lượng 24.5 hp/mét tấn
Hệ truyền động Allison DDA X-1100-3B
Hệ thống treo Thanh xoắn
Khoảng sáng gầm 0,48 m (1 ft 7 in) (M1, M1A1)
0,43 m (1 ft 5 in) (M1A2)
Sức chứa nhiên liệu 500 US gallons (1.900 l; 420 imp gal)
Tầm hoạt động 289 mi (465.29 km)[5]
Với hệ thống NBC: 279 mi (449.19 km)
Tốc độ Trên đường: 42 mph (67.7 km/h)
Việt dã: 30 mph (48.3 km/h)

Xe tăng M1 Abrams của Mĩ 305px-Abrams_Tank_at_the_Dona_Anna_Range

Xe tăng M1 Abrams của Mĩ 305px-Abrams_in_formation

Xe tăng M1 Abrams của Mĩ 305px-US_Navy_030215-N-2972R-023_M1A1_Tank_Off_Load

Xe tăng M1 Abrams của Mĩ 305px-Abrams_tank_with_mine_plow
M1 Abrams với lưỡi cày quét mìn

Xe tăng M1 Abrams của Mĩ Abrams%28rear%29_en
Mặt sau của M1 Abrams
brahweiz
brahweiz
Tân binh

Tổng số bài viết : 35
Ngày nhập ngũ : 27/05/2011

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang


 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết